Từ
ngày 30/9/1946, quân chủ lực ta bắt đầu hoạt động mạnh trên hướng An Khê, chủ động
đề phòng địch tấn công. Trong tháng 10/1946 các Trung đoàn 94, 95, 67 có dân
quân du kích An Khê phối hợp tập kích đồng loạt cứ điểm Kannak, Tú Thủy, Cửu
An, Eo Gió, Ya Hội... Nhân dân các làng Kinh ở An Khê nổi dậy phá cầu cống, cắt
dây điện thoại, diệt tề, trừ gian, củng cố lực lượng, mở rộng cơ sở.
Cuối
tháng 12/1946, địch chuyển chính sách lấn chiếm sang vũ trang xâm lược toàn bộ
nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày
19/12/1946. Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn
dân kháng chiến” ngày 22/12/1946.
Trên
chiến trường Gia Lai, ta tổ chức lại lực lượng, đẩy mạnh phong trào kháng chiến
địa phương. Ngày 30/12/1946, Trung đoàn 95 và dân quân vùng ven thị trấn An Khê
phối hợp phục kích địch trên cầu suối Vối trên đường 7. Đây là trận đánhthắng lớn
đầu tiên của quân và dân ta trên chiến trường Tây Nguyên.
Tháng
02/1947, Ban Chỉ huy Mặt trận quyết định mở chiến dịch tiến công trên toàn mặt
trận An Khê. Tỉnh ủy chỉ đạo huyện An Khê tổ chức quần chúng nổi dậy cùng bộ đội
tiến công địch bằng nhiều hình thức.
Đêm
14/3/1947, ta đánh trận mở màn vào đồn Tú Thủy. Lực lượng dân quân trong vùng
phối hợp với chủ lực nổi dậy tấn công địch ở các hướng trên địa bàn An Khê. Do
hỏa lực ta yếu hơn và chưa có kinh nghiệm đánh công kiên nên không tiêu diệt được
đồn địch. Trung đoàn trưởng Vi Dân và nhiều cán bộ, chiến sỹ hy sinh, nhưng
quân địch hoang mang, khiếp sợ trước tinh thần cảm tử của bộ đội ta.
Tháng
6 và tháng 7/1949, lực lượng địa phương phối hợp với Trung đoàn chủ lực 210 mở
đợt hoạt động Hè – Thu trên chiến trường An Khê (gọi là chiến dịch Hồ Chí
Minh), bao vây cứ kiểm Kannak, phá đường số 7, đường 19, pháo kích thị trấn An
Khê, đánh địch trên dốc Đak Pơ. Lực lượng vũ trang Cheo Reo đánh địch trên đường
7A từ Kà Lúi đi Mlăh và đi Mlăh đi Ơi Nu. Phối hợp với các hoạt động quân sự,
các đội công tác vùng An Khê, Cheo Reo đẩy mạnh xây dựng cơ sở, khôi phục phong
trào những vùng xung yếu gần cứ điểm và dọc đường giao thông chiến lược, phong
trào du kích chiến tranh phát triển.
Ngày
15/7/1950, Bộ tư lệnh Quân khu V mở chiến dịch Nguyễn Huệ ở Nam Tây Nguyên. Đường
số 7 huyện M’Đrăk, Cheo Reo được chọn làm trọng điểm tiến công. Ngày 20/7/1950,
dân quân các xã phối hợp với bộ đội địa phương bao vây uy hiếp đồn Mlăh, Kà
Lúi; pháo kích vào đồn, dùng loa kêu gọi vận động binh lính. Cùng đêm hơn 200 đồng
bào nổi dậy phá đường từ Ơi Nu đi Mlăh, địch ở Mlăh, Kà Lúi hoảng sợ rút chạy.
Đồng bào và du kích các xã khác nổi dậy diệt tề trừ gian, làm chủ buôn làng, đẩy
mạnh chiến tranh du kích.
Tháng
8/1951, Liên khu ủy chủ trương mở chiến dịch Bắc Kon Tum nhằm phá âm mưu củng cố
Tây Nguyên của địch, hỗ trợ phong trào quần chúng phá GOUM - ổ vũ trang của địch.
Ngày
14 đến ngày 15/8/1951, ta tiêu diệt đồn Kon Brăih, đồn Kon Pông, địch ở các cứ
điểm đồn Kon Klung, Kon Mơhar rút chạy. Lực lượng địa phương và Nhân dân Đăk
Glei, Đăk Tô, An Khê và nhiều nơi khác nổi dậy phối hợp đánh địch. Chiến thắng
Kon Plông đã có ảnh hưởng lớn đến việc gây cơ sở ở bắc Tây Nguyên và củng cố
căn cứ địa miền Tây. Đây cũng là đòn giáng mạnh vào âm mưu củng cố Tây Nguyên,
phá kế hoạch GOUM, tề của địch.
Tháng
10/1952, Liên Khu ủy V chủ trương mở chiến dịch Đông – Xuân 1952-1953 nhằm tiêu
diệt sinh lực địch, bồi dưỡng sức ta, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Trọng điểm
chiến dịch của bộ đội chủ lực Liên khu là An Khê.
Từ
ngày 13 đến ngày 25/01/1953, ta tiêu diệt cứ điểm Tú Thủy, Cửu An, bốt gác Eo
Gió; cứ điểm Thượng An và bốt gác đầu đèo An Khê diệt 2 đại đội tiểu đoàn sơn
chiến số 8 tiếp viện, 2 đại đội của tiểu đoàn dù số 1 đang tìm cách chiếm lại đầu
đèo và 2 đại đội tại Thượng An; đánh đoàn xe địch trên đường 19, phía Tây thị
trấn An Khê, phá hủy 25 chiếc; phát động nhân dân phá khu dồn, giải phóng một
vùng rộng lớn hơn 100 km2, với hơn 20.000 dân; củng cố cơ sở các
vùng.
Tháng
9/1953, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953-1954 nhằm giành lấy địa bàn chiến lược Tây Nguyên, phá âm mưu bình định miền
Nam của địch.
Tháng
12/1953, Hội nghị Liên Khu ủy và Đảng ủy Bộ Tư lệnh Liên
khu V thông qua kế hoạch tiến công lên Tây Nguyên, Bắc Kon Tum được chọn làm hướng
chính; An Khê đường 19 là hướng phối hợp. Hai trung đoàn chủ lực 108 và 803;
các Tiểu đoàn độc lập 30, 40, 59 và Trung đoàn 120 tham gia chiến dịch.
Ngày
20/01/1954, địch mở đầu cuộc hành quân Át Lăng đánh vào Phú Yên. Đêm
26/01/1954, ta tấn công tiêu diệt 2 cứ điểm Babakơtu và Katung – Bupbê (An Khê,
Đak Bớt). Đêm 27 rạng ngày 28/01/1954, tiêu diệt cứ điểm Măng Đen và Kon Braih,
Mang Bút, đập tan cụm phòng thủ then chốt Bắc Kon Tum.
Từ
ngày 01 đến ngày 19/02/1954, ta diệt 01 đại đội Binh đoàn cơ động 100 mới đến
Kon Tum; diệt Sở chỉ huy địch ở thị xã Kon Tum; chặn đánh xe tiếp tế trên đường
14; diệt đồn Đak Bớt và phá khu dồn ở nam đường 19; tiến công cơ quan ngụy ở
Cheo Reo; bao vây thị xã Kon Tum tiếp đánh cứ điểm Pleibông, Đak Đoa trên đường
19 bis; giải phóng tỉnh Kon Tum; tấn công tuyến phòng thủ vòng ngoài thị xã
Pleiku; tập kích diệt 2 đại đội thuộc Binh đoàn 100 đóng ở khu vực đồn Đak Đoa;
phục đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn đóng ở nam Biển Hồ; tiến đánh kho tàng ở
trung tâm thị xã; chặn đánh các đơn vị của Binh đoàn 11, 21, 100 khi đi càn.
Tháng
3 đến tháng 4/1954 diệt cứ điểm Tô Na (đèo Mang Yang), Muih Nhung; cứ điểm Thượng
An trên đường 19, tiến công Binh đoàn 100 tại Pleiring. Tập kích thị xã Pleiku
lần 2; tiêu diệt đồn Trà Kê, phục kích
đánh 2 đoàn xe địch trên đường số 7, đoạn Ơi Nu đi Cheo Reo, cắt đứt đường 7,
cô lập chi khu Cheo Reo; liên tục tiến công đánh địch và cắt đường 19... cô lập
An Khê với Pleiku.
Ngày
24/6/1954, tiến công tiêu diệt lực lượng địch từ Katung đến Đak Pơ gồm Binh
đoàn 100, tiểu đoàn pháo 105, tiểu đoàn khinh quân 520, tiêu đoàn ngụy
Campuchia, tiểu đoàn địa phương, trên 700 lính Âu Phi bị chết và bị thương.
1.200 tên bị bắt sống, thu vũ khí các loại. Huyện An Khê, Đak Bớt, Pleikon, Kon
Plông và vùng tây đường 14 Pleikli được giải phóng. Ta tiếp quản đặc khu Tân
An.
Ngày
17/7/1954, ta phục kích tiểu đoàn địch trên đường 14 từ Pleiku đi Buôn Ma Thuột,
chuẩn bị tấn công địch ở Pleiku, Cheo Reo thì ngày 20/7/1954 Hiệp định Giơnevơ
được ký kết.
Cuộc
kháng chiến thần thánh của Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và
can thiệp Mỹ đã kết thúc thắng lợi. Cùng với Nhân dân cả nước, Nhân dân các dân
tộc Gia Lai bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chín năm trong hoàn cảnh
hết sức khó khăn. Cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân Gia Lai đã làm thất
bại từng bước âm mưu nham hiểm, xảo quyệt của quân thù, tiến lên giải phóng,
làm chủ đại bộ phận vùng nông thôn, siết chặt vòng vây quân địch ở thị xã
Pleiku và thị trấn Cheo Reo, góp phần cùng quân và dân cả nước kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Pháp, chuẩn bị lực lượng để bước vào cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.