Hiện nay, chưa có tài liệu nào cụ thể nói quá trình hình
thành, xây dựng An Khê đình, tư liệu sớm nhất cho chúng ta biết sự có mặt của ngôi
đình là các đạo sắc phong dưới thời Nguyễn hiện đang lưu giữ ở đình.
Theo PGS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, khi ông
đến An Lũy vào tháng 5/1977, trong đình có hai sắc phong: một sắc thời Tự Đức
(1878), sắc còn lại thời Duy Tân (1909).
Theo ông Lê Đại Lượng, nguyên là chủ bái
của đình thì trước đây, đình được các vua nhà Nguyễn 7 lần ban sắc phong thần.
Nhưng thời kỳ kháng chiến chống Pháp, 4 sắc phong đã bị giặc Pháp đốt, hiện chỉ
còn lại 3 sắc.
Theo khảo sát thực tế, hiện nay trong đình
có 3 đạo sắc phong của triều Nguyễn:Đạo sắc phong năm Tự Đức thứ 33
(1880); năm Duy Tân thứ 3 (1909) và đạo sắc năm Duy Tân thứ 5 (1911). Như vậy,
khoảng cuối thế kỷ XIX, chắc chắn rằng An Khê đình đã hoàn thiện và đi vào hoạt
động, nghĩa là đình đã có trước năm 1880.
Cả ba đạo sắc
phong này có kích thước tương đối lớn (1,2m X 0,6m) làm từ giấy long đằng, dày,
màu vàng đậm, một mặt trang trí hoa văn hình rồng mây nhũ bạc, diềm sắc phong
rộng 4cm. Tuy nhiên trong ba đạo sắc phong, đến thời điểm hiện tại chỉ có đạo
sác phong thời Tự Đức là khá nguyên vẹn.
An Khê đình
thuộc địa bàn tổ 14, phường Tây Sơn, thị xã An Khê, là một trong những di tích
trong quần thể di tích cấp quốc gia Tây Sơn thượng đạo. Những người cao niên ở
vùng An Khê cho biết: ban đầu đình được xây dựng trên một khoảng rừng rậm rạp, trên một gò cao gần bên suối cái, hướng
mặt về phía Nam nơi có ngọn núi Mò O trùng điệp,gỗ làm đình được lấy tại
chỗ theo kiểu tự cung tự cấp, mái được lợp tranh, vách làm bằng đất. Đến thời Tây Sơn dựng cờ tụ nghĩa thì đình nằm trong lũy An
Khê giữa hai lớp tre dày và hào nước sâu che chắn bao bọc, vốn là nơi hội họp
của bộ chỉ huy nhà Tây Sơn.
Sang thời Nguyễn, vì muốn
xóa bỏ công lao to lớn của nhà Tây Sơn và làm lu mờ tình cảm của nhân dân đối
với triều đại này mà hai tiếng Tây Sơn trở thành quốc cấm. Việc thờ cúng những lãnh tụ Tây Sơn
cũng là bất hợp pháp. Để tỏ lòng biết ơn với nhà Tây Sơn và qua mắt chính quyền
nhà Nguyễn, nhân dân đã viện cớ thờ các vị thần dân gian như: Thành hoàng bổn
xứ, Nhị vị công tử, Chúa sơn lâm…Mặt khác họ thiết lập ba dinh thờ ở trước sân
đình để thờ cúng ba ngài, dinh được dựng theo lối kết hợp kiến trúc Kinh –
Thượng với nhà sàn và mái nhà người Kinh. Dinh chính giữa được thiết kế vách
ngăn bên trong để thờ Nguyễn Nhạc - Cô Hầu, hai dinh hai bên thờ Nguyễn Huệ và
Nguyễn Lữ.
Khi
thực dân Pháp đặt nền đô hộ nước ta, nhiều cơ sở đình, chùa bị đốt phá. Và An Khê
đình cũng chịu chung số phận. Khi đình bị cháy,hương chức, dân làng đành dời
những gì có thể về An Khê trườngtrong đó có các sắc phong thời Nguyễn và đóng
góp tiền của, công sức xây dựng một ngôi đình mới ở An Khê trường. Một thời
gian dài sau đó, An Khê đình bị bỏ hoang phế, sau Cách mạng Tháng Tám, dân làng
mới có dịp về sửa sang lại và lợp mái tôn cho đình.
Đình đã trải qua rất nhiều
lần trùng tu từ nguồn ngân sách nhà nước và nhân dân địa phương đóng góp. Khoảng những năm 1970, đình được xây dựng lại, mái lợp tôn.
Lần trùng tu năm 2005 - 2006, sường gỗ (cột, kèo, cửa) vẫn giữ nguyên,
thay mái tôn bằng ngói vảy, vách được xây tường gạch, nền lát gạch bát tràng
trên nóc mái đắp hai con rồng chầu mặt trời (Lưỡng long chầu nhật); sân đình
được lát gạch bát tràng, khung viên xây tường gạch. Năm 2014, được tu sửa, lát
lại gạch nền và đưa 9 án thờ bằng gỗ vào thay thế các bàn thờ bằng bê tông bên
trong.
Lần gần đây nhất là năm
2020, cùng với việc trùng tu, tôn tạo,xây dựng một số công trình thuộc quần thể
di tích Tây Sơn thượng đạo, An Khê đình cũng được trùng tu, lợp lại ngói vảy,
thay thế một số chi tiết cột, kèo gỗ bên trong bị mối mọt và vẫn giữ lại hình
dáng tổng thể của ngôi đình theo kiến trúc cổ truyền,
tiền đường hậu tẩm. Ngôi tiền đường có ba gian hai chái, hậu tẩm có một gian
hai chái, hội đủ sáu vày kèo, tám cây quyết, tám cây đấm và bốn mươi cây cột.
Gia nguyên, đỉnh chốt của ngôi đình được 6 bộ cối chày thon thả nâng cao và an
tọa trên lưng sáu cây trính ba lá uốn cong, kèo nhất đoạn tạc đầu lân đuôi cá,
năm gian bàn khoa cải tiến, ngưỡng cửa xoi chỉ lá sen, ngạch cửa xoi chỉ trái
cốc… Tất cả các hạng mục gỗ đều toát lên nước sơn màu gụ vàng óng, hoặc màu nâu
thẫm bóng ngời. Trên nóc mái đắp “lưỡng long chầu nhật”, nền và sân lát gạch
Bát Tràng…
Bên trong tiền đường, hậu
tẩm bài trí chín hương án thờ các vị thần dân gian : Thiên YAna, thần Bạch mã,
Ngũ hành nương nương, Thành hoàng bổn xứ, Tiền hiền, Hậu hiền...
Hàng năm,
cứ đếp dịp mồng 10 tháng 2 âm lịch, nhân dân trong vùng tổ chức lễ cúng Quý
Xuân (hay còn gọi cúng Tế Xuân, cúng đình…) tại An Khê đình để tỏ lòng biết ơn
với các bậc thần linh và những bậc Tiền hiền, Hậu hiền có công khẩn hoang lập
làng, từ đó gửi gắm khát vọng và ước muốn của mình về
một cuộc sống bình yên, no đủ ở vị Thành hoàng làng, cầu mong mưa thuận gió
hòa, mùa màng tươi tốt.
Trước đây trong khuôn khổ lễ Quý
Xuân còn có Hội hát cầu Huê gồm: hát Bội, hát Bài chòi, khu chợ Kinh - Thượng,
các trò chơi dân gian..... Tuy nhiên hơn 60 năm qua, Hội Hát cầu Huê đã bị thất
truyền, lễ hội Quý Xuân chỉ còn lại phần lễ. Năm 2015, qua quá trình sưu tầm,
nghiên cứu từ liệu, lần đầu tiên, Bảo tàng tỉnh Gia Lai đã tái hiện thành công
Hội cầu Huê của người Việt vùng An Khê. Những năm sau đó, hoạt động này được
giao cho UBND thục hiện. Từ đó đến nay, hàng năm, thị xã An Khê đều duy trì
sinh hoạt văn hóa độc đáo này.
An Khê đình không chỉ là chứng
tích lịch sử oai hùng và truyền thống thượng võ,
vang danh gắn liền với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn đã đi vào lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, mà hiện nay, đây còn là còn là điểm thu hút du
khách trong và ngoài nước đến tham quan tìm hiểu, khám phá lịch sử văn hóa vùng
đất này./.